Thơ pt 21/8
Danh mục
Đến với Bài thơ hay
NỘI DUNG
Lời dẫn : Thơ pt 14/8 -Đến với bài thơ hay (pt): đón nghe ptv nhớ đọc Mời quý thính giả đón nghe ct văn nghệ pt có tên "Đến với bài thơ hay". Trong ct này, chúng tôi muốn giới thiệu một bài thơ có tiếng vang của Cảnh Trà , ct được phát sóng vào ngày CN : 21/8, vào lúc 11g 20 và 16g50 , ct này do pv Xuân Dũng thực hiện, Việt Thanh biên tập và dàn dựng, mời quý vị và các bạn đón nghe. -Ptv dẫn: *Những người thực hiện ct: "Đến với bài thơ hay" xin kính chào quý thính giả! Trong ct hôm nay, chúng tôi sẽ giới thiệu một bài thơ xúc động liên quan dến giới tuyến tạm thời là vĩ tuyến 17 của nhà thơ Cảnh Trà, bài của Xuân Dũng. Mời quý vị và các bạn cùng theo dõi. *Qúy thính giả vừa theo dõi ct: đến với bài thơ hay, ct này được thực hiện với sự tham gia của...thân ái chào tạm biệt.

                 BÀI THƠ"ĐƯA DÂU QUA CẦU BẾN HẢI" CỦA CẢNH TRÀ.

 

                                                                                              (Xuân Dũng)

 

   Ngày 20/7/1975 tại thôn Hiền Lương, xã Vĩnh Thành, huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị có một sự kiện văn nghệ, đó là việc khai sinh bài thơ "Đưa dâu qua cầu Bến Hải" của nhà thơ Cảnh Trà.

   Trong văn nghệ hiện đại Việt Nam, mà phổ biến trong thơ và nhạc, đề cập chuyện đám cưới không ít, nhưng hầu hết là nói đến chia ly, tan vỡ, ngậm ngùi...  Ngày trước Nguyễn Bính viết bài thơ "Lỡ bước sang ngang" thì ngay tên gọi cũng đã thấy một cuộc tình đổ vỡ. Hay như nhạc sĩ Phạm Duy có nhạc phẩm nổi tiếng "Chuyện tình buồn" (phổ nhạc bài thơ cùng tên của thi sĩ Phạm Văn Bình-một người Quảng Trị) cũng là những day dứt, xót xa :"Ngày nhà em pháo nổ/Anh cuộn mình trong chăn..."  Chỉ có thời miền Bắc trước năm 1975, Phan Thị Thanh Nhàn mới có một bài thơ vui vẻ, lạc quan "Đám cưới ngày mùa" với khổ kết khá ấn tượng : "Các cụ ông say thuốc/Các cụ bà say trầu/Còn con trai con gái/ Chỉ nhìn mà say nhau".

   Vậy thì Cảnh Trà viết về đám cưới có gì khác và đáng nói ? Trước hết đây là bài thơ ra đời vào đúng ngày 20/7/1975, khi đất nước hoàn toàn thống nhất, nhưng cách đó 21 năm ngày 20/7/1954 cũng là ngày ký hiệp định Geneve, chia cắt hai miền, tưởng là giới tuyến tạm thời, nhưng lại kéo dài hai thập kỷ với muôn trùng xa cách, nhớ thương và đớn đau. Bởi vậy khi diễn ra sự kiện đám cưới, nhất là đưa dâu qua cầu Bến Hải thì lập tức gây chấn động lớn tâm can nhà thơ và được sinh hạ nhanh chóng như giọt nước tràn ly.

   Một buổi mai nắng vàng hoa ngâu

Đám cưới đưa dâu qua cầu Bến Hải

Cầu vừa bắc xong

Sơn còn tươi rói

Đôi bờ xanh lúa mới ngậm đòng

   Một cảnh tượng thoạt trông có vẻ cũng bình thường: trời đẹp, một đám cưới diễn ra trong cảnh thanh bình như bao đám cưới khác. Nhưng trong đám cưới này còn có một "nhân vật" khác im lặng nhưng hết sức quan trọng, là điểm nhấn đặc biệt, tạo nên thần thái của cả bài thơ: "nhân vật chiếc cầu". Nó chính là xương sống sinh thành cấu tứ bài thơ, làm bùng nổ cảm xúc một cách đột phá. Đó là chiếc cầu không-bình-thường, chiếc-cầu-chia- cắt.

   Nhìn lại họ qua cầu mà nước mắt

rưng rưng

Mà sung sướng vui tràn như trẻ nhỏ

Chàng trai Vĩnh Linh cưới cô gái đất Cùa,

Cam Lộ

Sông tưng bừng nhìn đôi lứa thương nhau

Gió lâng lâng con sóng vỗ chân cầu

   Lạ chưa, ngày vui, nhất là song hỷ lâm môn như xưa nay quan niệm về đám cưới, dân gian thường vẫn tránh nói chuyện buồn, càng kiêng kỵ chuyện khóc lóc nhưng đám cưới này thì nước mắt rưng rưng. Vì hạnh phúc và vui mừng quá đỗi, mọi người có thể vô tư bày tỏ tình cảm chân thực của mình một cách hồn nhiên, cho thỏa những dồn nén, ẩn ức bao năm. Chỉ những người sống hai bên giới tuyến, sống trong sự chia cắt đằng đẵng như đồng bào Vĩnh Linh, Gio Linh-Quảng Trị mới thấu cảm được hết những giọt nước mắt này.

   Gió lâng lâng con sóng vỗ chân cầu

Mà thắt ruột câu hò xưa tê tái

Bước chân Hiền Lương sao đường

nghẽn lại

Đáo tới Bến Hải sao gác mái tình duyên

   Đây quả thực là nỗi đau dai dẳng của dân tộc Việt Nam, hiện hữu đủ đầy tại tâm điểm là dòng sông Hiền Lương, chiếc cầu Bến Hải. Chiến tranh và những hậu quả nặng nề, trong đó có đoạn trường chia cắt thật không thể nào nói hết, vẫn đề lại di chứng dài lâu đối với con Lạc cháu Hồng. Lẽ ra một sự kiện phổ biến của nhân sinh như đám cưới là câu chuyện bình thường thì lại trở nên khác thường bởi chiến tranh, chia cắt, hận thù...Vì bản chất của tình yêu, hôn nhân, đám cưới đồng nghĩa với niềm vui, hạnh phúc, đoàn viên trái ngược hẳn với với những thống khổ mà chiến tranh gieo họa, trong đó có chia lìa như người xưa vẫn nói: sinh ly tử biệt.

   Đám cưới hôm nay cũng tự nhiên

Như là hoa, là lá

Như là chị lấy chồng, như là tôi lấy vợ

Mà hay chưa, bỡ ngỡ như chiêm bao

   Lại thêm một hậu quả của chia cắt nhiều năm. Khi nước nhà chưa thống nhất, ai cũng mong chờ ngày đại đoàn viên, được tự do thoải mái đi lại trên chiếc cầu lịch sử. Nhưng khi ngày ấy đến thì ai nấy không khỏi ngỡ ngàng, cứ tưởng trong mơ, đó chính là nghịch lý cảm xúc khi phải trải qua một trường kỳ ngăn cách. Những ước mơ, khao khát hai mươi năm mới được toại nguyện, một thế hệ đã sống và chiến đấu, ao ước bước qua cầu bằng bước chân hòa bình trong một ngày yên lành không tiếng súng, không tiếng đạn bom gầm rú trên đầu. Những mối tình uất  nghẹn, dang dở vì chia cắt, những đợi chờ dằng dặc bao năm đã dồn nén trong tâm tưởng bao người ở hai bên vĩ tuyến 17. Chúng ta, trong đó có lứa tuổi hai mươi đã đi qua sống chết và đợi chờ, đã vượt qua muôn ngàn thử thách để chờ đến ngày đoàn viên. Cho nên đám cưới qua cầu Bến Hải, qua sông Hiền Lương mới trở thành sự kiện, mới là câu chuyện hệ trọng không chỉ với một đời người. Chao ôi, ai đã từng sống qua những thời gian khắc khoải: ngày Bắc, đêm Nam mới thấu cảm được tình người giới tuyến.

   Chừng vui quá nên cô dâu bối rối

Mắt thẹn thùng, chen trong đám chị em

Tóc cài hoa với chiếc áo thanh thiên

Mới nắng đó mà đỏ lừ đôi má

Chàng trai bâng khuâng tay đung đưa

trong gió

Sông long lanh nước sóng sánh đôi bờ

Tiếng nói cười như chim hót sau mưa.

    Đoạn kết là khúc hoan ca xúc động, đó thực sự là những cảnh tượng đẹp, thanh bình, an lành đến rơi nước mắt mà chỉ những ai trải qua chinh chiến triền miên, đợi chờ vời vợi mới đồng cảm tận cùng. Chiếc cầu đã trở thành biểu tượng sum họp, Nam-Bắc một nhà.

   Bài thơ thành công và lay động lòng người bởi nó đã phát hiện ra điều khác thường từ một điều bình thường và ngược lại, hai yếu tố này cứ xoắn xuýt vào nhau, tạp nên một trường liên tưởng vừa tương phản lại vừa đồng nhất, chọn được hình tượng đắc địa: đưa dâu qua chiếc cầu chia cắt bao năm. Lời thơ dung dị, chân mộc,  giàu cảm xúc, chạm đến sâu thẳm tâm tư của hàng triệu con người với mong muốn muôn đời về hòa bình, thống nhất, nói chuyện của đôi người mà thành chuyện của muôn người, chuyện thời sự mà cũng là chuyện của muôn đời. Mọi chiếc-cầu-chia-cắt trên đời này phải sớm hóa thành chiếc-cầu-đoàn-viên. Việc này muốn viên thành thì mọi người trong cuộc phải vượt qua những hố sâu ngăn cách, đồng tâm hiệp lực bằng cả tấm lòng.

 Không có tiếng bom rơi đạn lạc, chết chóc ai oán nhưng bài thơ vẫn vang lên lời tố cáo chiến tranh và những hậu quả khổ đau, chia cắt. Bởi chưng nó đi ngược lại mọi lại mọi giá trị nhân văn của con người, đe dọa đến hết thảy cuộc sống và hạnh phúc của mọi người.

   Bài thơ "Đưa dâu qua cầu Bến Hải" của nhà thơ Cảnh Trà cũng như nhạc phẩm "Mùa xuân đầu tiên" của Văn Cao đã chạm vào sâu thẳm khát vọng của cả dân tộc Việt Nam. Những sáng tác như thế thường có sức sống bền lâu bởi vì nội lực thanh tân ít chịu ảnh hưởng những nếp nhăn tuổi tác.

 

File đính kèm:
File Video :
Người tạo Ngày tạo Người duyệt Ngày duyệt
Phạm Xuân Dũng 13/08/2022 09:38 Lê Vĩnh Nhiên 15/08/2022 10:06

Các sản phẩm khác

Đài phát thanh - Truyền hình Quảng Trị
Địa chỉ: 105/2 Nguyễn Trãi, Phường 1, Thành phố Đông Hà