Điểm thơ:
Chúng ta cùng điểm qua thơ của nhà thơ Trần Trình Lãm, một người con Quảng Trị xa quê, hiện sống và công tác tại tp Đà Nẵng. Thơ trên tạp chí Cửa Việt.
Trong bài thơ "Sông tôi", nhà thơ Trần Trình Lãm đã viết, như một lời giới thiệu về mình:
Tuổi thơ tôi yêu sông qua sách vở
Làng tôi chỉ có cát với ruộng phèn
Những con sông xa
Như huyền thoại
Vẽ vào tôi chút hư ảo
Cánh buồm
Lớn lên tôi ra đi
rồi phiêu dạt
Qua bao miền, bao phố, bao làng
Bao dòng sông vừa mơ vừa thực
Cuộn xô tôi lúc ào ạt
Có nghĩa là cho dù làng quê nhà thơ không gần sông thì đã có hẳn một dòng sông trong tâm thức của mình từ những trang gióa khoa, những mộng mơ từ thưở học trò.Điều đó cắt nghĩa vì sao dòng sông tâm tưởng cứ đi hết cả gần một đời người trong sáng tác của nhà thơ Trần Trình Lãm:
Khi về sông gội tắm
Chợt nhận ra sông - lòng mẹ bao dung
Sông như em môi ngọt dịu mềm
Khoảng mát lành, giữa đường xa cơ cực
Và tôi hiểu sông
Là có thực
Còn trong bài thơ "Anh sẽ trở về" Trần Trình Lãm đã thốt lên như một cachs biểu hiện bằng thi ca về mọt khát vọng về nguồn, dù đó chưa hẳn là làng quê chôn nhau cắt rốn mà cót hể là thành phố, quê hương thứ hai, nơi anh đang sống:
Chắc mai anh sẽ trở về
Thăm phố cũ hoàng hôn phía núi
Nơi ngàn năm, anh vẽ lên mình vết tím
Lặng lẽ như con sâu róm buồn...
Chắc mai anh sẽ trở về
Kỷ niệm chuyền nhau bốn mùa sám hối
Em ngồi một mình bên ô cửa
Ru con tự thuở nào, lời ru cô đơn
Để rồi miên man dòng chảy cảm xúc hướng vào tâm điểm trở về như một hối thúc nội tâm:
Mai anh sẽ về, anh sẽ về
Em cứ ngồi hắt hiu lời ru bên ô cửa
À ơi! Muôn thuở
Gió se lòng viễn du.
Chúng ta sẽ còn gặp nhà thơ vào những dịp thích hợp khác qua tác phẩm của anh.
THƠ VỀ MỌT ĐÁM CƯỚI CÓ MỘT KHÔNG HAI.
(Phạm Xuân Dũng)
Ngày 20/7/1975 tại thôn Hiền Lương, xã Vĩnh Thành, huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị có một sự kiện văn nghệ, đó là việc khai sinh bài thơ "Đưa dâu qua cầu Bến Hải" của nhà thơ Cảnh Trà.
Trong văn nghệ hiện đại Việt Nam, mà phổ biến trong thơ và nhạc, đề cập chuyện đám cưới không ít, nhưng hầu hết là nói đến chia ly, tan vỡ, ngậm ngùi... Ngày trước Nguyễn Bính viết bài thơ "Lỡ bước sang ngang" thì ngay tên gọi cũng đã thấy một cuộc tình đổ vỡ. Hay như nhạc sĩ Phạm Duy có nhạc phẩm nổi tiếng "Chuyện tình buồn" (phổ nhạc bài thơ cùng tên của thi sĩ Phạm Văn Bình-một người Quảng Trị) cũng là những day dứt, xót xa :"Ngày nhà em pháo nổ/Anh cuộn mình trong chăn..." Chỉ có thời miền Bắc trước năm 1975, Phan Thị Thanh Nhàn mới có một bài thơ vui vẻ, lạc quan "Đám cưới ngày mùa" với khổ kết khá ấn tượng : "Các cụ ông say thuốc/Các cụ bà say trầu/Còn con trai con gái/ Chỉ nhìn mà say nhau".
Vậy thì Cảnh Trà viết về đám cưới có gì khác và đáng nói ? Trước hết đây là bài thơ ra đời vào đúng ngày 20/7/1975, khi đất nước hoàn toàn thống nhất, nhưng cách đó 21 năm ngày 20/7/1954 cũng là ngày ký hiệp định Geneve, chia cắt hai miền, tưởng là giới tuyến tạm thời, nhưng lại kéo dài hai thập kỷ với muôn trùng xa cách, nhớ thương và đớn đau. Bởi vậy khi diễn ra sự kiện đám cưới, nhất là đưa dâu qua cầu Bến Hải thì lập tức gây chấn động lớn tâm can nhà thơ và được sinh hạ nhanh chóng như giọt nước tràn ly.
Một buổi mai nắng vàng hoa ngâu
Đám cưới đưa dâu qua cầu Bến Hải
Cầu vừa bắc xong
Sơn còn tươi rói
Đôi bờ xanh lúa mới ngậm đòng
Một cảnh tượng thoạt trông có vẻ cũng bình thường: trời đẹp, một đám cưới diễn ra trong cảnh thanh bình như bao đám cưới khác. Nhưng trong đám cưới này còn có một "nhân vật" khác im lặng nhưng hết sức quan trọng, là điểm nhấn đặc biệt, tạo nên thần thái của cả bài thơ: "nhân vật chiếc cầu". Nó chính là xương sống sinh thành cấu tứ bài thơ, làm bùng nổ cảm xúc một cách đột phá. Đó là chiếc cầu không-bình-thường, chiếc-cầu-chia- cắt.
Nhìn lại họ qua cầu mà nước mắt
rưng rưng
Mà sung sướng vui tràn như trẻ nhỏ
Chàng trai Vĩnh Linh cưới cô gái đất Cùa,
Cam Lộ
Sông tưng bừng nhìn đôi lứa thương nhau
Gió lâng lâng con sóng vỗ chân cầu
Lạ chưa, ngày vui, nhất là song hỷ lâm môn như xưa nay quan niệm về đám cưới, dân gian thường vẫn tránh nói chuyện buồn, càng kiêng kỵ chuyện khóc lóc nhưng đám cưới này thì nước mắt rưng rưng. Vì hạnh phúc và vui mừng quá đỗi, mọi người có thể vô tư bày tỏ tình cảm chân thực của mình một cách hồn nhiên, cho thỏa những dồn nén, ẩn ức bao năm. Chỉ những người sống hai bên giới tuyến, sống trong sự chia cắt đằng đẵng như đồng bào Vĩnh Linh, Gio Linh-Quảng Trị mới thấu cảm được hết những giọt nước mắt này.
Gió lâng lâng con sóng vỗ chân cầu
Mà thắt ruột câu hò xưa tê tái
Bước chân Hiền Lương sao đường
nghẽn lại
Đáo tới Bến Hải sao gác mái tình duyên…
Đây quả thực là nỗi đau dai dẳng của dân tộc Việt Nam, hiện hữu đủ đầy tại tâm điểm là dòng sông Hiền Lương, chiếc cầu Bến Hải. Chiến tranh và những hậu quả nặng nề, trong đó có đoạn trường chia cắt thật không thể nào nói hết, vẫn đề lại di chứng dài lâu đối với con Lạc cháu Hồng. Lẽ ra một sự kiện phổ biến của nhân sinh như đám cưới là câu chuyện bình thường thì lại trở nên khác thường bởi chiến tranh, chia cắt, hận thù...Vì bản chất của tình yêu, hôn nhân, đám cưới đồng nghĩa với niềm vui, hạnh phúc, đoàn viên trái ngược hẳn với với những thống khổ mà chiến tranh gieo họa, trong đó có chia lìa như người xưa vẫn nói: sinh ly tử biệt.
Đám cưới hôm nay cũng tự nhiên
Như là hoa, là lá
Như là chị lấy chồng, như là tôi lấy vợ
Mà hay chưa, bỡ ngỡ như chiêm bao
Lại thêm một hậu quả của chia cắt nhiều năm. Khi nước nhà chưa thống nhất, ai cũng mong chờ ngày đại đoàn viên, được tự do thoải mái đi lại trên chiếc câu lịch sử. Nhưng khi ngày ấy đến thì ai nấy không khỏi ngỡ ngàng, cứ tưởng trong mơ, đó chính là nghịch lý cảm xúc khi phải trải qua một trường kỳ ngăn cách.
Chừng vui quá nên cô dâu bối rối
Mắt thẹn thùng, chen trong đám chị em
Tóc cài hoa với chiếc áo thanh thiên
Mới nắng đó mà đỏ lừ đôi má
Chàng trai bâng khuâng tay đung đưa
trong gió
Sông long lanh nước sóng sánh đôi bờ
Tiếng nói cười như chim hót sau mưa.
Đoạn kết là khúc hoan ca xúc động, đó thực sự là những cảnh tượng đẹp, thanh bình, an lành đến rơi nước mắt mà chỉ những ai trải qua chinh chiến triền miên, đợi chờ vời vợi mới đồng cảm tận cùng. Chiếc cầu đã trở thành biểu tượng sum họp, Nam-Bắc một nhà.
Bài thơ thành công và lay động lòng người bởi nó đã phát hiện ra điều khác thường từ một điều bình thường và ngược lại, hai yếu tố này cứ xoắn xuýt vào nhau, tạp nên một trường liên tưởng vừa tương phản lại vừa đồng nhất, chọn được hình tượng đắc địa: đưa dâu qua chiếc cầu chia cắt bao năm. Lời thơ dung dị, chân mộc, giàu cảm xúc, chạm đến sâu thẳm tâm tư của hàng triệu con người với mong muốn muôn đời về hòa bình, thống nhất, nói chuyện của đôi người mà thành chuyện của muôn người, chuyện thời sự mà cũng là chuyện của muôn đời. Mọi chiếc-cầu-chia-cắt trên đời này phải sớm hóa thành chiếc-cầu-đoàn-viên. Việc này muốn viên thành thì mọi người trong cuộc phải vượt qua những hố sâu ngăn cách, đồng tâm hiệp lực bằng cả tấm lòng.
Không có tiếng bom rơi đạn lạc, chết chóc nhưng bài thơ vẫn vang lên lời tố cáo chiến tranh và khổ đau, chia cắt. Bởi chưng nó đi ngược lại mọi lại mọi giá trị nhân văn của con người, đe dọa đến hết thảy cuộc sống và hạnh phúc của mọi người.
Bài thơ "Đưa dâu qua cầu Bến Hải" của nhà thơ Cảnh Trà cũng như nhạc phẩm "Mùa xuân đầu tiên" của Văn Cao đã chạm vào khát vọng của cả dân tộc Việt Nam. Những sáng tác như thế thường có sức sống bền lâu bởi vì nội lực thanh tân ít chịu ảnh hưởng những nếp nhăn tuổi tác.
|