Điểm thơ :
Chúng ta cùng đến với thơ Mai Thanh Vinh đăng tải trên tạp chí Cửa Việt.
Trong bài thơ "Thu sang", tác giả viết:
Lục tung kí ức khóc cười
dầm dề con mắt mấy mươi năm
cũng đâu vui thêm một bữa
mà vàng màu lá từng xanh...
Thu sang, nghĩa là thời gian tiếp tục trôi, điều này có ý nghĩa với những ai lớn tuổi. Cho nên sự việc tự nhiên, đương nhiên mà nhiều khi thốt lên trong ý nghĩ giật mình, như câu thơ: mà vàng màu lá từng xanh.
dẫu đẩy xô cho lòng nghiêng ngả
cũng ôm mộng mị một đời
ngày xoa vỗ rót đêm vào khát
ngửa mặt cười tiếng khóc lịm đáy sâu
và cứ thế
vỗ tay nhảy múa
thả tiếng cười giòn như mảnh thủy tinh sắc lẹm
cứa thinh không rách giọt nắng trong veo
Hai câu cuối trong đoạn thơ trên là một cách tìm tòi thể hiện mới của người viết như muốn rạch một nhát thơ điêu khắc không gian từ cảm thức thời gian.
cố dằm mình trong nỗi bi thương
vẫn không hái chùm sao phía trước
lẽ nào bỏ lại cuộc chơi
thì thôi
tìm về con sóng
ru bời cát trắng
thu sang...
Khổ cuối trở về với cách nói quen thuộc dù vẫn là thơ. Hình như dao động thơ nhiều khi giống dao động con lắc, dù có lay động bao nhiêu rồi cũng trở lại trạng thái ban đầu.
Trong bài thơ "Lời ru tiếng gió" cũng của tác giả Mai Thanh Vinh, nhà thơ đã viết:
Sợi nắng buông trên đôi vai người đàn bà
giống như áo mỏng
không đủ che vết rạn thời gian
không giấu vết nứt thịt da
tâm hồn trầy xước
nàng muốn cười khi gió hắt hiu
Cảm xúc có vẻ trừu tượng khó nắm bắt và thịt da hiển lộ lại đổi chỗ cho nhau trong cách thể hiện cựa quậy, sinh động, muốt bứt phá ra khỏi cách cảm và thể hiện thông thường. Để rồi, nhà thơ lại viết:
người đàn bà cõng nắng dầm sương
khản tiếng rao buồn ran trong ngực
thì thôi vậy
trút vào đêm trắng
mặc sông đời ngụp lặn về khơi
người đàn bà
ngửa mặt ngó trời
xanh xa quá
lời ru như tiếng gió...
Không điều gì rõ ràng, không điều gì có thể nắm bắt trong tay, tất cả mông lung như chực tuột ra như cát và bay đi như gió trong thơ Mai Thanh Vinh.
MỘT NHÀ THƠ NẶNG TÌNH QUÊ.
(Xuân Dũng)
Hễ nhắc đến nhà thơ Nguyễn Văn Dùng là người ta nhắc đến hai câu thơ quen thuộc với công chúng trong bài “Giếng” của ông : “Em ra giếng gánh nước trong/Còn tôi ra giếng để không làm gì”. Hai câu thơ có duyên, vừa tình tứ lại vừa cắc cớ thi sĩ như chính tác giả, trong chừng mực nào đó làm nên “thương hiệu” Nguyễn Văn Dùng, dù ông đã làm rất nhiều thơ và tôi đồ rằng đó cũng chưa hẳn là những câu thơ chọn lọc nhất của ông.
Dễ thấy rằng tâm cảm quê hương là dòng thơ chủ đạo của nhà thơ Nguyễn Văn Dùng. Ngay tập thơ mới nhất vừa xuất bản gần đây “Khúc hát sông Hiền” cũng cho thấy điều này. Nhan đề nhiều, rất nhiều bài thơ của ông cũng chứng thực cho tình yêu quê hương của ông, từ “Thương miền nắng gió”, “Gặp lại sông Bến Hải”, “Quảng Trị mình”, “Thị xã và tôi” cho đến “Chiều tím Cửa Tùng”, “Sa Lung bên lử bên bồi”, “Nắng Đông Hà”, “Xuân về bên sông Hiếu”...Lối viết của ông lại ảnh hưởng đậm nét âm hưởng dân gian từ ca dao lục bát cho đến hò sông nước, hò giã gạo nên tình quê càng thắm thiết, nồng nàn. Trong bài “Thương miền nắng gió”, tác giả mô tả quê hương với những chi tiết chân thực từ đời sống:
Ở nơi này, anh nhớ nhiều về em
Chao ! Cái nắng quê mình như lửa đốt
và cái gió miền Trung như bão giật
cái mưa xứ mình như thác đổ triền miên.
Hay khi đứng trước “Sa Lung bên lở bên bồi” hồn thơ như trẻ lại với những đam mê, day dứt như thời trai trẻ với câu kết bất ngờ thi sĩ nhớ tiếc một dòng sông ký ức:
Một ngày trời đất hao hanh
Quên câu thơ cũ em thành cô dâu
Xênh xang áo váy qua cầu
Con sông gầy guộc bạc đầu nhớ thương...!
Nhưng thơ Nguyễn Văn Dùng không chỉ đơn thanh, đơn sắc theo lối bộc bạch dân dã có phần quê kiểng. Có những bài thơ lục bát đầy đặn càm xúc và dụng công trau chuốt nên vẫn khá hay theo cách Nguyễn Văn Dùng. Như khi ông cũng nặng lòng với một nhà văn quê hương nên sáng tác bài thơ “Hoa phù dung” tặng Hoàng Phủ Ngọc Tương.
Với tay hái đóa phù dung
Ai hay hoa đã tận cùng hư vô
Tháng năm nông nổi dại khờ
Hình như sương trắng nhuộm bờ heo may.
Viết như vậy có thể xem cũng là một tri âm của Hoàng Phủ, bởi tinh tế thấu cảm những nỗi lòng nhau nhiều khi không dễ nói, hoặc không dễ gì nói hết.
Phù dung nay đã về đâu
Có người vò võ đêm thâu ngày dài
Phập phồng hơi thở bên tai
Nghe mong manh tiếng gót hài làm tin.
Cũng như có đôi lần thơ ông đột biến giọng điệu khác lạ, cách lập ý, lập ngôn cũng khác khiến người đọc không khỏi ngỡ ngàng và thú vị trước một đột biến thơ của Nguyễn Văn Dùng. Bài thơ “Một vạn ngày” là một dẫn dụ sinh động.
Anh đã mất một vạn ngày để yêu em
Anh không muốn mất thêm một vạn ngày để quên em được nữa
Qũy thời gian của anh không còn nhiều chỉ tính bằng cơm bữa
Dù chẳng còn bao nhiêu với anh vẫn quý giá vô cùng.
Một Nguyễn Văn Dùng không còn có vẻ ngoài đùa cợt, hài hước mà đầy suy tư và triết lý. Thơ tình đầy triết luận mà vẫn không theo lối mòn, vẫn tươi mới trong lý lẽ và cảm xúc.
Anh đã mất một vạn ngày độ lượng bao dung
Anh không muốn mất thêm một vạn ngày để xót xa hơn được nữa
Không gian chật hẹp của anh không đủ ô-xy để bùng lên ngọn lửa.
Dù chật chội nhỏ nhoi với anh lại quý giá vô cùng.
Tình cảm cổ điển nhưng cách nói hiện đai, trẻ trung và đó là một thành công cần được lưu tâm khi nói đến thơ tình Nguyễn Văn Dùng.
Anh đã mất một vạn ngày để nuôi lớn tình thân
Anh không thể để mất thêm một vạn ngày để quên tình lãng mạn
Thời gian không gian với anh đã tận đáy đã bên bờ giới hạn
Dù tất cả đã phù du với anh là thứ quý giá nhất trên đời.
Tôi có cảm giác có vẻ như nhà thơ Nguyễn Văn Dùng sáng tác nhanh, nhiều và không mấy khó khăn, vật vã, đó có thể là “thể tạng” văn chương của mỗi người. Tuy vậy bên cạnh những thành công của thi sĩ Nguyễn Văn Dùng cần được nhìn nhận đúng mức, bạn đọc vẫn muốn nhà thơ chọn lọc hơn mỗi khi cầm bút, tiết chế hơn trong tìm kiếm đề tài và thể hiện để giảm bớt những bài thơ trung bình, có thêm được những thi phẩm được công chúng mến yêu và nhắc nhở.
|